Điều chỉnh căn cứ tính lương hưu, trợ cấp một lần từ năm 2020

Từ năm 2020, lao động nam giới đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật bảo hiểm xã hội, khi có 18 năm đóng bảo hiểm xã hội thì mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Theo lộ trình trong Luật bảo hiểm xã hội 2014, đến năm 2020, sẽ có ba chính sách lớn về hưu trí có hiệu lực: 

  • Điều kiện nghỉ hưu khi đã suy giảm 61% khả năng lao động 
  • Mức lương hưu hàng tháng khi mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội 
  • Điều chỉnh căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu và trợ cấp một lần

Tiếp tục điều chỉnh căn cứ tính lương hưu, trợ cấp một lần

Điều 62 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này thì mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần được tính như sau: Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01-01-2020 đến ngày 31-12-2024 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 20 năm cuối trước khi bắt đầu nghỉ hưu.

Trước đó, người lao động thuộc đối tượng trên khi tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01-01-2016 đến ngày 31-12-2019 thì tính bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 15 năm cuối trước khi bắt đầu nghỉ hưu…

Mức hưởng lương hưu hàng tháng

Theo quy định của Điều 56 (Luật BHXH 2014), từ năm 2020, lao động nam giới, đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật BHXH, khi có 18 năm đóng bảo hiểm xã hội thì mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội. 

Trường hợp lao động nữ giới đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật, Điều 56 quy định: Lao động nữ giới nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm đóng bảo hiểm xã hội.

Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động nam giới, nữ giới được tính thêm 2%, mức tối đa là 75%. Tuy nhiên, cách tính lương hưu của Luật bảo hiểm xã hội 2014 có gây một số bất lợi cho lao động nữ giới bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 – năm 2021 có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng, so với lao động nam giới theo cách tính của Luật bảo hiểm xã hội 2006.

Do đó, Quốc hội Khóa XIV (tháng 5 – 2018) đã thống nhất giao Chính phủ ban hành văn bản thực hiện chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ giới bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 01-01-2018 đến ngày 31-12-2021 và bị những tác động bất lợi hơn so với lao động nam.

Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ra quyết định ban hành Nghị định 153/2018/NĐ-CP quy định mức điều chỉnh được tính theo mức lương hưu tính theo quy định tại khoản 2 điều 56 hoặc khoản 2 Điều 74 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 tại thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu với tỷ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội, thời điểm bắt đầu được hưởng lương hưu.

Điều kiện nghỉ hưu khi bị suy giảm khả năng lao động

Tại Điểm a, Khoản 1, Điều 55 Luật BHXH năm 2014 có quy các điều kiện được hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.

Do đó, người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với mức lương thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu trong điều kiện bình thường khi về tuổi hưu (nam 60, nữ 55 tuổi).

Lộ trình cụ thể: Từ ngày 01-01-2016, nam giới đủ 51 tuổi, nữ giới đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì sẽ đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.

Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam giới đủ 55 tuổi và nữ giới đủ 50 tuổi thì sẽ đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Tại thời điểm hiện nay (năm 2019), lao động nam giới chỉ cần đủ 54 tuổi và lao động nữ giới đủ 49 tuổi là đã đủ điều kiện về tuổi để được hưởng lương hưu sau khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.